CHƯƠNG TRÌNH AUSTRALIA HỖ TRỢ CẢI CÁCH KINH TẾ VIỆT NAM (Aus4Reform)

18/1/2019

Thách thức quản trị, huy động vốn và phát triển cơ sở hạ tầng

Khẳng định thời gian qua kết cấu hạ tầng (KCHT) của Việt Nam đã được quan tâm đầu tư, từng bước hoàn thiện theo hướng đồng bộ hiện đại và cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, song Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng cho rằng trong thời gian tới, phát triển KCHT của Việt Nam vẫn đối mặt nhiều thách thức…

Thách thức quản trị, huy động vốn và phát triển cơ sở hạ tầng

Khẳng định thời gian qua kết cấu hạ tầng (KCHT) của Việt Nam đã được quan tâm đầu tư, từng bước hoàn thiện theo hướng đồng bộ hiện đại và cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, song Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng cho rằng trong thời gian tới, phát triển KCHT của Việt Nam vẫn đối mặt nhiều thách thức…

 

Các đại biểu tham dự hội thảo
Các đại biểu tham dự hội thảo

 

Hôm qua (16/1), Ban Kinh tế T.Ư phối hợp với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tổ chức Hội thảo “Quản trị, huy động vốn và phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) - Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam”. Đây cũng là một trong ba hội thảo chuyên đề trong khuôn khổ Diễn đàn kinh tế Việt Nam năm 2019 do Chính phủ và Ban Kinh tế T.Ư phối hợp tổ chức với sự đồng hành của Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Chương trình Aus4Reform).

Thông tin tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng cho biết, về nguồn lực đầu tư, bên cạnh việc ưu tiên sử dụng tối đa các nguồn vốn ngân sách Nhà nước khả dụng, Chính phủ luôn quan tâm thúc đẩy việc thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân, đặc biệt thông qua mô hình PPP. Theo số liệu thống kê sơ bộ, trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai được 147 dự án (không tính các dự án theo loại hợp đồng BT) với tổng mức đầu tư khoảng 1.144.152 tỷ đồng (tương đương 52 tỷ USD).

 “Những dự án với nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân quan trọng này đã góp phần cải thiện rõ rệt chất lượng hệ thống CSHT tại Việt Nam…” - Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng khẳng định và cho rằng, trong thời gian tới, phát triển KCHT của Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức. 

Trước hết, đó là  quy mô nền kinh tế không lớn, khả năng tích lũy hạn chế dẫn đến việc duy trì mức đầu tư cao từ ngân sách Nhà nước sẽ tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm cân đối vĩ mô, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn nền kinh tế. 

Cùng với đó, áp lực của trần nợ công tăng cao, đồng thời Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, điều này đồng nghĩa với việc nguồn vốn vay nước ngoài dành cho phát triển KCHT ngày càng giảm và sẽ phải vay vốn ưu đãi với mức lãi cao hơn. Việc duy trì và cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính để cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển KCHT cũng là một thách thức lớn đối với toàn nền kinh tế. 

Liên quan đến thu hút nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân, Thứ trưởng cho biết, các điều kiện cần thiết để thu hút nguồn lực này thông qua mô hình đầu tư PPP vẫn còn hạn chế do các nguyên nhân như: Nhà nước chưa có đủ nguồn lực tài chính tham gia; năng lực thực hiện còn yếu; cơ chế chính sách chưa đồng bộ, chưa đủ mạnh và còn thiếu các cơ chế bảo đảm, bảo lãnh và chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư (rủi ro về doanh thu, rủi ro về chuyển đổi ngoại tệ...); đi cùng là việc thực thi chưa đảm bảo yêu cầu về tính chuyên nghiệp và minh bạch của thị trường. 

Ngoài ra, còn có một số tồn tại làm ảnh hưởng tới quá trình thực hiện đầu tư theo mục tiêu của Chiến lược như: Thị trường vốn tại Việt Nam chưa phát triển, trong khi các ngân hàng thương mại còn hạn chế về khả năng cấp tín dụng cho đầu tư phát triển KCHT; Công tác quản lý nhà nước về đầu tư còn hạn chế, bao gồm cả việc quản lý vốn đầu tư, kiểm tra, giám sát và sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương. 

“Vì vậy, để đạt được các mục tiêu về phát triển đồng bộ KCHT trong thời gian tới, trong đó có những dự án lớn về giao thông vận tải như đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, cảng Hàng không quốc tế Long Thành, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, tiếp tục hoàn thành các công trình điện, hạ tầng đô thị lớn, thủy lợi thích ứng biến đổi khí hậu và các hạ tầng khác... thì việc đề xuất các giải pháp toàn diện, trong đó có đề xuất về cơ chế, chính sách để quản trị, huy động vốn đầu tư là vấn đề cấp thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay…” - Thứ trưởng Vũ Đại Thắng khẳng định. 

Phát biểu tại Hội thảo, Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Umeda Kunio đã khẳng định, kể từ khi Chính phủ Việt Nam phê duyệt mức trần nợ công là 65% GDP vào năm 2016 thì Chính phủ Việt Nam thông qua Bộ Tài chính đã nghiêm ngặt và quản lý chặt chẽ các khoản vay nợ, đặc biệt là từ các nhà tài trợ nước ngoài. Đại sứ cho rằng, chính sách này có hiệu quả tương đối tốt để có thể quản lý nợ công ở Việt Nam. 

“Tuy nhiên còn một số nhược điểm có thể thấy khá rõ thông qua các dự án CSHT. Đây là những nhược điểm có thể kéo Việt Nam đi chậm lại. Việt Nam cần tìm thêm nhiều những phương án tài chính khác nữa để có thể tài trợ cho các dự án CSHT của mình. Tôi biết Việt Nam cũng đang rất cần nguồn vốn đầu tư và Nhật Bản luôn cam kết cũng như hỗ trợ Việt Nam…” -  Đại sứ  Umeda Kunio khẳng định và bày tỏ tin tưởng Việt Nam có đủ năng lực để phát triển kinh tế. “Nhật Bản tin tưởng chắc chắn rằng đây là thời điểm lịch sử để Việt Nam có thể đạt được những mốc phát triển và tăng trưởng bền vững hơn nữa…” - Đại sứ nhấn mạnh.